Hỏi: Vào ngày 25/9/2024, tôi và một người lạ mặt đã xảy ra mâu thuẫn trong một tình huống căng thẳng. Cả hai có lời qua tiếng lại, và sau đó người này đã tác động vật lý vào tôi trước. Trong lúc xô xát qua lại để tự vệ, tôi vô tình gây ra thương tích nghiêm trọng cho người này dẫn đến không qua khỏi và tử vong tại chỗ. Hiện tôi rất lo lắng về những hậu quả pháp lý mà mình có thể phải đối mặt và mong muốn được luật sư tư vấn về những vấn đề sau:

1. Trong trường hợp này, tôi có thể phải đối mặt với tội danh gì? Liệu hành động của tôi có được xem xét là phòng vệ chính đáng hay không?

2. Có những yếu tố nào có thể giúp tôi giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này không?

Tôi rất mong nhận được sự tư vấn và hướng dẫn từ quý Luật sư để có thể hiểu rõ hơn về tình hình và có cách giải quyết vụ việc phù hợp. Tôi xin chân thành cảm ơn và mong sớm nhận được phản hồi từ quý Luật sư. Trân trọng.

Cảm ơn câu hỏi của bạn. Sau đây Luật An Nghiệp - Luật sư Đồng Nai sẽ giải đáp câu hỏi và đưa ra dẫn chứng quy định pháp luật qua bài viết dưới đây

Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn đã phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 126 Bộ luật hình sự năm 2015

Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm

Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có cấu thành tội phạm như sau: - Khách thể: là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền sống của con người.

- Mặt khách quan: hành vi khách quan của tội phạm là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Đây là trường hợp nạn nhân chính là người có hành vi tấn công, xâm hại lợi ích hợp pháp và hành vi giết người là hành vi người phạm tội lựa chọn thực hiện để ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ lợi ích hợp pháp đang bị xâm hại. Trong trường hợp này, hành vi giết người để phòng vệ là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết để thực hiện quyền phòng vệ chính đáng.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp

- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 trở lên.

Đây là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên bắt buộc phải có hậu quả chết người. Hành vi của bạn đã đủ để cấu thành tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, dẫn đến hậu quả làm chết người, nhưng do bạn chỉ làm chết một người nên bạn sẽ phải chịu hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến năm năm.

Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (ảnh minh họa)

Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (ảnh minh họa)

Bạn có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này hay không?

Theo khoản 3 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trong trường hợp này, bạn sẽ không được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. Bạn có thể tham khảo thêm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

Trên đây là bài viết tham khảo của Luật An Nghiệp. Nếu bạn đọc có gì thắc mắc hãy liên hệ ngay tới chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn hiệu quả nhất.

Văn Phòng Luật Sư An nghiệp được đánh giá là một trong những công ty luật uy tín chuyên nghiệp hàng đầu tại Đồng Nai và các tỉnh lân cận. Với đội ngũ nhân viên luật sư chuyên nghiệp, am hiểu pháp luật, được đào tạo bài bản luatsubienhoa.com.vn đã và đang hỗ trợ, là lựa chọn hàng đầu cho nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức lớn nhỏ có nhu cầu về luật. Công ty có trụ sở chính tại Biên Hòa, Đồng Nai hỗ trợ các lĩnh vực chính:

LIÊN HỆ LUẬT SƯ ĐỒNG NAI - VPLS AN NGHIỆP

Điện Thoại: 079 44 77 555

Địa chỉ: 1680 - Nguyễn Ái Quốc- KP6- Biên Hòa - Đồng Nai

lsnguyenhieuhcm@gmail.com

Hỏi đáp khác